Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp

Ngày 29/11/2022, Kỳ họp thứ 17 tại Thủ đô Rabat, Vương quốc Maroc, Ủy ban liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO đã Quyết định ghi danh “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp”.

Nghệ thuật làm gốm của người Chăm là di sản văn hóa làng nghề đầu tiên của Việt Nam được UNESCO ghi danh. Sự kiện này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công bố là 01 trong 10 sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch tiêu biểu trong năm 2022.

Gốm Chăm được làm ra nhờ sự khéo léo, uyển chuyển, mềm mại của đôi tay và cơ thể, của sự sáng tạo cá nhân người phụ nữ Chăm. Sản phẩm chủ yếu là đồ gia dụng, đồ dùng cúng lễ và đồ mỹ nghệ gồm: chum (jek), nồi (gok), mâm (cambak), bình (bilaok)… Nghề làm gốm được xem là biểu hiện của sự sáng tạo cá nhân do người phụ nữ Chăm làm ra trên nền tảng tri thức được lưu truyền trong cộng đồng.

Sản phẩm gốm không tráng men và được phơi khô, nung ở ngoài trời bằng củi và rơm trong 7 đến 8 giờ ở nhiệt độ khoảng 8000C. Nguyên liệu (đất sét, cát, nước, củi và rơm) được khai thác  tại cánh đồng Hamu Tanu Halan, bên bờ sông Quao thuộc làng Bàu Trúc.

Dụng cụ làm gốm của người Chăm đơn giản do nghệ nhân tận dụng vật liệu tại chỗ như: vòng quơ, vòng cạo (bằng tre) để cạo mỏng thân gốm, và vỏ sò, vải cuộn thấm nước để chà láng thân gốm. Tri thức và kỹ năng làm nghề được trao truyền trong gia đình, dòng họ và cộng đồng.Việc trao truyền được thực hiện bằng biện pháp kể chuyện và thực hành hàng ngày.

Thay vì sử dụng bàn xoay, người phụ nữ Chăm di chuyển giật lùi quanh khối nguyên liệu để tạo hình sản phẩm. Khởi đầu quá trình tạo dáng, người thợ đặt lên hòn kê khối đất hình quả bí vừa đủ để tạo đáy và một phần hình dáng ban đầu. Người thợ dùng hai tay bóp nặn, đi giật lùi theo khối nguyên liệu. Hình hài sản phẩm hiện lên rất nhanh dưới bàn tay và di chuyển của người thợ, họ dùng tay để se những lọn đất tròn, dài (còn gọi là con trạch) nối vòng liên tục vào miệng gốm để tạo độ cao cho thân gốm. Quá trình nối những con trạch, bóp nặn, tạo độ cao, bẻ miệng gốm hay dùng tay, vòng quơ để vuốt, miết thân gốm, hoặc dùng vải cuộn để chà láng thân gốm cũng như tạo hoa văn, đường viền… sự di chuyển giật lùi mềm mại của người thợ đã tạo ấn tượng và cuốn hút người xem. Kỹ thuật chải, chà láng bằng miếng vải thấm nước quấn vào tay, miết láng bằng vỏ sò hoặc dùng những công cụ hết sức thô sơ như: cây que, răng lược, vỏ ốc, sò… cùng với nước màu được chiết từ cây, lá trong làng để tạo nên hoa văn trang trí mộc mạc, ấn tượng và sinh động. Hoa văn trang trí trên gốm thường theo ngẫu hứng của người thợ, nhưng thể hiện rất rõ đặc trưng văn hóa Chăm truyền thống…

Việc làm nghề tạo cơ hội cho người phụ nữ Chăm giao lưu, tương tác trong lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội, cũng như trong việc giáo dục nghề nghiệp cho con cái, nâng cao hơn nữa vai trò của họ trong xã hội. Nghề gốm gắn với thực hành tín ngưỡng tôn thờ, tri ân Tổ nghề là thần Po Klong Can và liên quan trực tiếp phong tục, tập quán xã hội, nghi lễ và nghệ thuật diễn xướng dân gian… Rất nhiều điệu múa, bài ca mang đậm văn hóa nghệ thuật Chăm đã ra đời từ nghề làm gốm. Nghề làm gốm cũng giúp tăng thu nhập của gia đình và bảo lưu thuần phong mỹ tục, bản sắc văn hóa của người Chăm Ninh Thuận.

SVHTTDL Ninh Thuận